Hẳn ai cũng từng có một kỷ niệm nào đó với cánh diều, bất kể đó là loại hình thoi phổ biến hay là loại hình chim có thể đập cánh được. Hẳn ai cũng nhớ về một ngày nắng ấm khi ta còn bé thơ, cầm diều thả lên không trung để gió đưa bay cao bay xa, rồi múa lượn giữa tầng không.

Diều rồng trong ảnh là tác phẩm của nghệ nhân Dương Hồng Vệ, truyền nhân cấp quốc gia về nghệ thuật làm diều sinh sống tại Duy Phường, tỉnh Sơn Đông - Ảnh: China Daily
Nhưng con diều trong ký ức của nghệ nhân Dương Hồng Vệ tại Làng Dương Gia Phụ, Duy Phường, tỉnh Sơn Đông, có chút khác biệt. Nó là loại diều hình rồng khổng lồ, có thân dài hơn 360 mét và cần có hàng chục người mới thả bay được.
Tại Lễ hội Diều Quốc tế Duy Phường lần thứ 3 tổ chức năm 1986, nhằm tôn vinh truyền thống làm diều tại địa phương, hai thợ làm diều Dương Đồng Khoa và Dương Khải Dân - ông và chú của nghệ nhân Dương Hồng Vệ - đã trình làng con diều lớn gấp 10 lần những gì họ từng làm trước đây.
Duy Phường được mệnh danh là “thủ phủ diều thế giới” và Dương Gia Phụ từ lâu đã là làng nghề diều trứ danh. Sinh năm 1966 trong một gia đình có truyền thống làm diều, nghệ nhân Dương Hồng Vệ trở thành truyền nhân cấp quốc gia về nghệ thuật làm diều tại Duy Phường vào đầu năm 2024.

Nghệ nhân Dương Hồng Vệ đang làm diều - Ảnh: Tân Hoa Xã
Dương Gia Phụ nổi tiếng với hai di sản văn hoá phi vật thể cấp quốc gia: diều và tranh mừng năm mới - loại tranh in mộc bản được trưng trong nhà dịp nguyên đán. Cả hai truyền thống này được thành hình từ thời nhà Minh (1368-1644) và phát triển tột bật dưới thời nhà Thanh (1644-1911). Cô Dương cho biết: “Diều chúng tôi làm lấy cảm hứng từ tranh mừng năm mới, mỗi con lại mang theo nó một câu chuyện và lời chúc sung túc khác nhau.”
Trong Lễ hội Diều Quốc tế lần thứ 37 tổ chức ở Berck-sur-Mer, Pháp, vừa qua, cô Dương có mang theo một số diều Duy Phường đến tham gia triển lãm, trong đó có một con diều rồng với phần thân là tranh 100 trẻ nhỏ được vẽ tay trên 50 nan tròn. Con diều là lời chúc trường thọ, hưng thịnh, cùng nhiều điều may khác.

Một cô bé thả diều tại Trấn Giang, tỉnh Giang Tô hôm 06/4 - Ảnh: Tân Hoa Xã
Mã Như Dao, Giáo sư tại Đại học Thiên Tân chuyên nghiên cứu về truyền thuyết và di sản văn hoá phi vật thể, giải thích: “Trong suốt chiều dài lịch sử, diều luôn gắn liền với đời sống thường nhật và chịu nhiều ảnh hưởng từ các truyền thống dân gian.”
Diều Trung Hoa đã có từ thời Xuân Thu (770-476 TCN) và được nhiều học giả cho là do Mặc Tử sáng chế ra. Theo họ, vị hiền triết này đã mất 3 năm để hoàn thành một con diều hâu bằng khung gỗ và đó chính là nguyên mẫu các con diều hiện đại. Sau đó, thợ mộc Lỗ Ban đã cải tiến bản mẫu này, lấy tre nứa thay gỗ để làm khung. Đến triều đại Đông Hán (25-220), Thái Luân bắt đầu phát triển kỹ thuật làm giấy, từ đó tạo ra “diều hâu giấy” gần như tương tự các con diều ta thấy ngày nay.
Giáo sư Mã nhận định: “Truyền thống làm diều cho thấy sự tài tình và óc sáng tạo của các bậc vĩ nhân Trung Hoa trong công cuộc học hỏi, khám phá thiên nhiên. Họ quan sát chim chóc rồi tìm cách gắn kết giấy với gỗ lại để làm thành vật có thể bay lượn trên tầng không y như vậy. Nhờ trí tò mò và tinh thần theo đuổi khoa học, họ đã hiểu và tận dụng được sức mạnh của gió.”
Đến thời Đường (618-907) thái bình, giấy trở nên dễ làm và được phổ biến rộng rãi hơn, từ đó diều cũng đi vào đời sống thường nhật. Theo đà phát triển kỹ thuật làm diều mà nhiều hoạ tiết mới dần xuất hiện và sáo diều cũng ra đời.
Cũng dưới thời Đường, thả diều trở thành phong tục thường thấy mỗi dịp hội hè lễ lạt. Nhà thơ La Ẩn cuối triều Đường từng có bài viết về tục thả diều tết hàn thực - lúc này diễn ra trước nhưng về sau đã gộp chung với lễ tảo mộ.
Tục thả diều ngày càng được lan truyền rộng rãi trong quần chúng dưới thời Tống (960-1279). Đến các triều đại Minh-Thanh, cả thiết kế, kiều dáng, hình trang trí, kỹ nghệ sản xuất, và kỹ thuật thả diều đều có nhiều tiến bộ đáng kể.
Giáo sư Mã đúc kết: “Từ một đồ vật dân dã như diều, ta có thể thấy người dân xem trọng các giá trị văn hoá gắn liền với hạnh phúc, sung túc, và sức khoẻ như thế nào. Sợi dây gắn kết diều với văn hoá và con người Trung Hoa vì vậy mới trường tồn mãi đến ngày hôm nay và trở thành một di sản mà dân chúng vô cùng trân quý.”
Huỳnh Trọng Nhân
(Lược dịch)