Trang chủ»Nhân vật - Sự kiện

Nhân vật - Sự kiện

Ada Lovelace

Nhà toán học người Anh Ada Lovelace sinh ngày 10/12/1815 tại Piccadilly Terrace, Middlesex (nay là London) và qua đời ngày 27/11/1852 tại Marylebone, London. Nhờ những đóng góp của bà và Charles Babbage - người được mệnh danh là cha đẻ máy vi tính hiện đại, Lovelace thường được gọi là nhà lập trình máy tính đầu tiên.



Chân dung Ada Lovelace - Tranh: Getty Images

Gia đình và giáo dục

Ada Lovelace là con gái nhà thơ Lord Byron nổi tiếng. Đáng buồn thay, ba mẹ bà ly thân chỉ 2 tháng sau khi bà sinh ra. Ông Byron cũng rời khỏi Anh ít lâu sau và qua đời tại Hy Lạp khi bà lên 8. Vậy là bà cũng không có nhiều ký ức về ông.

Là một cô gái sinh sống trong gia đình khá giả thế kỷ 19, Ada được mẹ (tức Anne Isabella Byron, hay Lady Byron) cho học âm nhạc, tiếng Pháp, và đặc biệt là toán và khoa học - những môn không được dạy cho trẻ nữ thời đó. Isabella tin rằng những môn khoa học tự nhiên với lý luận chặt chẽ sẽ giúp con gái bà không gặp phải tình trạng tính khí thất thường giống cha.

Từ nhỏ, Ada đã thể hiện năng khiếu toán học và ngôn ngữ vượt trội. Những người thầy, người cô đã dạy dỗ Ada cũng đều là các vị học giả có tiếng: như nhà canh tân xã hội William Frend, bác sĩ William King, nhà thiên văn Mary Somerville.

Gặp gỡ Charles Babbage và ý tưởng “máy phân tích”

Năm 1883, lúc lên 17 tuổi, Ada gặp Charles Babbage thông qua Somerville. Ada và Charles nhanh chóng trở thành bạn. Nhờ Babbage, bà có cơ hội theo học toán nâng cao tại Đại học London và được dẫn dắt bởi giáo sư toán học đầu tiên của trường - Augustus De Morgan.

Từ lần đầu gặp mặt, Ada đã có hứng thú với máy tính hiệu số của Babbage. Bà được tận mắt chứng kiến nguyên mẫu công trình trên và nghe Charles chia sẻ về ý tưởng “máy phân tích” - thiết bị có thể đảm đương nhiều thao tác tính toán hơn. Ý tưởng này được Charles thai nghén khi vẫn còn chế tạo máy hiệu số theo yêu cầu từ chính phủ Anh.

Babbage mường tượng máy phân tích là dạng máy cơ tự động đa năng có thể chạy được chương trình đã thiết lập sẵn và thực hiện bất kỳ phép tính nào đưa cho nó. Cỗ máy này sẽ gồm 4 bộ phận: guồng quay, hộp trữ, đầu đọc, và bộ in. Guồng quay là nơi thực hiện các phép tính, có chức năng tương tự bộ xử lý trung tâm (CPU) trong máy vi tính hiện đại. Hộp trữ là nơi lưu giữ dữ liệu tiền xử lý, có thể xem là tiền thân của bộ nhớ hay các ứng dụng lưu trữ ngày nay. Còn đầu đọc và bộ in lần lượt là đầu vào và đầu ra của máy. Có thể nói máy phân tích đã đặt ra nền tảng giúp xây dựng nên các loại máy tính hiện đại ngày nay.

Tương tự máy tính hiệu số trước đó, máy phân tích có cấu trúc vô cùng phức tạp với bộ nhớ lưu giữ được 1.000 số có 50 chữ số. Máy vận hành bằng động cơ hơi nước và được một chuyên viên điều khiển. Bộ in cũng là sáng kiến đầy tham vọng của Babbage. Ông muốn sáng chế của mình vận hành tự động càng nhiều càng tốt, kể cả khâu in kết quả.

Đầu đọc cũng là bộ phận mới trong bản thiết kế máy phân tích. Dữ liệu (ở đây là những con số) được chuyển sang thẻ đục lỗ bằng máy dệt Jacquard. Câu lệnh cũng được đưa vào máy phân tích qua thẻ đục lỗ - tiếp tục là ý tưởng của Joseph-Marie Jacquard. Cỗ máy của Babbage có thể được tuỳ chỉnh linh động nhờ các thẻ đục lỗ khác nhau - điểm tiến bộ vượt bậc so với các loại máy móc cùng thời và về cơ bản cũng giống các thao tác lập trình máy tính ngày nay.

Năm 1843, Ada dịch và chú thích bài báo bằng tiếng Pháp do nhà toán học kiêm kỹ sư người Ý Luigi Federico Menabrea công bố một năm trước đó, mang tên “Notions sur la machine analytique de Charles Babbage” (tạm dịch: “Các yếu tố cấu thành máy phân tích của Charles Babbage”). Phần ghi chú của riêng Ada đáng chú ý hơn hẳn khi nó dài gần 3 lần bản dịch tiếng Anh. Bài viết của Ada sau đó đăng trên tạp san khoa học dưới bút danh A.A.L, chính là tên viết tắt của bà - Augusta Ada Lovelace.

Trong phần ghi chú, Lovelace mô tả phương pháp mã hoá các con chữ và ký hiệu để máy phân tích có thể “đọc” được như cách nó xử lý các con số. Bà nhận ra thiết bị này trên lý thuyết có thể thực hiện hàng loạt phép tính nối tiếp nhau hay lặp đi lặp lại chuỗi các câu lệnh nhất định (quy trình tương tự nguyên lý “vòng lặp” trong lập trình sau này). Từ đó, bà biện luận cỗ máy của Babbage có thể tính toán dãy số Bernoulli như thế nào; đây được nhiều nhà sử học xem là “chương trình máy tính” đầu tiên trong lịch sử.

Bài báo của bà có dòng: “Máy phân tích dệt nên những mô thức đại số hệt như cách máy Jacquard dệt nên hoạ tiết hoa lá vậy.” Ada còn tin rằng sáng chế của Babbage có thể thực hiện nhiều loại câu lệnh hơn chỉ là “tính toán với các con số”, như biểu diễn nốt nhạc chẳng hạn.

Đời tư và di sản



Tranh vẽ Ada Lovelace - Tranh: World History Archive

Ada Lovelace kết hôn ngày 08/7/1835. Chồng bà là William King, người được phong chức bá tước năm 1838; qua đó Ada cũng được phong danh hiệu Nữ bá tước Lovelace. Cả hai có ba người con và theo hầu hết các ghi chép, King ủng hộ vợ mình theo đuổi con đường học thuật. Hai vợ chồng kết giao với nhiều học giả đương thời như nhà khoa học Michael Faraday và nhà văn Charles Dickens.

Sức khoẻ Ada bắt đầu yếu dần sau khi bà bị bệnh tả vào năm 1837. Từ đó trở đi, bà thường xuyên phải vật lộn với chứng hen suyễn và các bệnh đường ruột. Vì sử dụng á phiện và cồn thuốc phiện mà bác sĩ thời đó kê toa nhằm giảm đau, bà dần thay đổi tính cách, thường gặp ảo giác, và tâm trạng bất ổn định. Bà qua đời cuối năm 1852, chỉ khoảng 2 tuần trước khi bước sang tuổi 37.

Bài biên dịch và chú thích của Ada ít được ai chú ý đến lúc mới công bố. Phải hơn 100 năm sau, vào những năm 1950, đóng góp của bà dành cho ngành khoa học máy tính mới được thừa nhận rộng rãi. B. V. Bowden là người có công phổ biến lại các ghi chú của Ada Lovelace qua cuốn “Faster Than Thought: A Symposium on Digital Computing Machines” (tạm dịch: “Nhanh hơn cả ý nghĩ: Tham luận về các cỗ máy tính toán số học”) ra mắt năm 1953.

Từ đó, tên tuổi Ada Lovelace được biết đến nhiều hơn. Vào năm 1980, Bộ Quốc phòng Mỹ gọi ngôn ngữ máy tính mà họ mới phát triển thành công là “Ada”. Ngày thứ Ba tuần 2 tháng 10 hằng năm được chọn làm Ngày Ada Lovelace vừa tưởng nhớ bà, vừa nhằm vinh danh các nhà khoa học nữ cùng đóng góp của họ trong khối ngành STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, và toán học).

Huỳnh Trọng Nhân
(Lược dịch)

SIU Review - số 142

Thông tin tuyển dụng

Thông tin cần biết

icon Giá vàng
icon Tỷ giá ngoại tệ
icon Chứng khoán