Trang chủ»Khoa học - Công nghệ

Khoa học - Công nghệ

Những lợi ích, khó khăn khi áp dụng ifrs tại việt nam và những điều cần chuẩn bị

Cùng với bối cảnh toàn cầu hoá và hợp tác phát triển kinh tế, nhu cầu tăng cường đầu tư từ các công ty nước ngoài cũng dần tăng cao, các số liệu tài chính kế toán không dừng lại ở cấp độ quốc gia, mà nay đã và đang mở rộng nhiều sang cấp độ quốc tế. Do đó, vấn đề đặt ra là BCTC cần có sự tương thích và tính so sánh được giúp các doanh nghiệp nước ngoài có cái nhìn chính xác về năng lực của doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời cũng là thước đo để doanh nghiệp Việt Nam tự chuẩn đoán được tình hình sức khoẻ tài chính của mình so với mặt bằng chung các nước trên thế giới. Theo tài liệu của Ủy ban Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IASB), tính đến nay đã có 131/143 quốc gia và vùng lãnh thổ (chiếm tỷ lệ 93% các nước được IASB khảo sát) đã tuyên bố về việc cho phép áp dụng Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (International Financial Reporting Standars – IFRS) dưới các hình thức khác nhau. Như vậy, IFRS đã trở thành một ngôn ngữ chung mà các nước chọn lựa để cùng nhau hướng tới toàn cầu hoá BCTC, giảm thiểu tối đa sự khác biệt trong BCTC của từng quốc gia. Không thể nằm ngoài hướng đi chung của thế giới, Bộ tài chính cũng đã ban hành lộ trình áp dụng IFRS tại Việt Nam. Quá trình này được chia ra nhiều giai đoạn nhằm cụ thể hoá quá trình đưa IFRS vào thực tiễn.

1. Lộ trình áp dụng IFRS tại Việt Nam

Ngày 16/3/2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 345/QĐ-BTC “Phê duyệt Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam”. Lộ trình áp dụng này gồm 3 giai đoạn:

Nguồn: ifrs.vn

2. Những lợi ích và khó khăn khi áp dụng IFRS tại Việt Nam

Theo dantaichinh.vn, việc áp dụng IFRS mang lại cho Việt Nam những lợi ích như sau:

Hội tụ và tạo điều kiện nhận được nhiều ưu đãi từ quốc tế: Ngày nay khi BCTC đã trở thành công cụ để đánh giá tình hình sức khoẻ của doanh nghiệp thì việc áp dục IFRS sẽ giúp Nhà nước, cơ quan quản lý, các doanh nghiệp trong và ngoài nước cùng có một ngôn ngữ chung, một chuẩn mực chung để so sánh và đưa ra các quyết định kinh tế phù hợp. Một trong những lý do Việt Nam hiện nay chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ do hệ thống chuẩn mực BCTC nước ta còn chưa đầy đủ và lạc hậu so với thông lệ quốc tế. Do đó, việc áp dụng IFRS góp phần để cộng đồng quốc tế sớm công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường đầy đủ, từ đó thúc đẩy đầu tư nước ngoài, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Việc áp dụng IFRS cũng sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết trên thị trường quốc tế hoặc nhận được các khoản vay ưu đãi từ các định chế tài chính quốc tế như WB, IMF, ADB… Các doanh nghiệp FDI là công ty con của các tập đoàn xuyên quốc gia sẽ không còn phải mất thêm chi phí để chuyển đổi BCTC sang IFRS cho mục đích hợp nhất BCTC với công ty mẹ ở nước ngoài.

Tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho nhiều phần hành kế toán mà VAS chưa quy định: Hiện nay kế toán Việt Nam chưa có quy định về công cụ tài chính, tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý. Việc xây dựng các quy định cụ thể về công cụ tài chính, giao dịch phái sinh tác động mạnh mẽ đến cả thị trường sơ cấp (thị trường phát hành công cụ tài chính) và thị trường thứ cấp (thị trường giao dịch). Đối với thị trường sơ cấp, các ngân hàng và tổ chức tài chính có căn cứ pháp lý rõ ràng để hạch toán các loại công cụ tài chính được phát hành mới như hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn và hợp đồng hoán đổi. Đối với thị trường thứ cấp, hệ thống chuẩn mực BCTC về công cụ tài chính được ban hành đầy đủ sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư vào các công cụ tài chính phái sinh như một loại chứng khoán trên sàn giao dịch tập trung. Đặc biệt, việc áp dụng IFRS là một trong những yếu tố để nâng hạng cho thị trường chứng khoán Việt Nam.

Nâng cao tính minh bạch và trung thực của BCTC: Do IFRS yêu cầu các khoản mục của BCTC phải được ghi nhận và trình bày theo bản chất hơn là hình thức hay tên gọi của giao dịch, vì vậy sẽ giảm thiểu tác động của hình thức giao dịch đến phương pháp kế toán, từ đó làm tăng khả năng so sánh giữa BCTC của doanh nghiệp tại Việt Nam với các doanh nghiệp khác trong khu vực và thế giới.

Cung cấp thông tin đầy đủ hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp: IFRS yêu cầu trình bày và thuyết minh chi tiết về những rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải như rủi ro kinh doanh, rủi ro tín dụng, rủi ro chính sách…, nhằm cung cấp thông tin đầy đủ hơn cho các nhà đầu tư, chủ nợ khi quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. IFRS cũng yêu cầu áp dụng nhiều mô hình tài chính để xác định giá trị tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý, giá trị có thể thu hồi, giá trị sử dụng, giá trị thời gian, giá trị nội tại… Vì vậy, thông tin tài chính được cung cấp trên nền tảng IFRS sẽ giúp doanh nghiệp đánh giá được tình hình tài chính tại thời điểm báo cáo cũng như giúp Ban giám đốc có được những thông tin phục vụ tốt hơn cho việc dự báo kết quả hoạt động và dòng tiền trong tương lai, từ đó có căn cứ và công cụ để thực hiện công tác quản trị, điều hành phù hợp với tình hình thực tiễn.

Hướng đến sự lâu dài và tính bền vững: Khi áp dụng IFRS, các doanh nghiệp sẽ phát sinh một số chi phí đầu tư ban đầu phục vụ cho việc đào tạo lại nguồn nhân lực cũng như thay đổi hệ thống thông tin, phần mềm kế toán. Mặc dù các chi phí đầu tư ban đầu là tương đối lớn nhưng xét về lâu dài thì những lợi ích từ việc minh bạch hóa thông tin, thu hút nhà đầu tư không những sẽ mang lại lợi ích nhiều hơn các chi phí ban đầu mà còn giúp doanh nghiệp phát triển ổn định, bền vững.

Bên cạnh những lợi ích mang lại thì luôn có những khó khăn đi kèm, nhất là đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam ta. Theo Học viện Kế toán kiểm toán thực hành SAPP, các khó khăn khi Việt Nam áp dụng IFRS như sau:

Thị trường tài chính và thị trường vốn chưa đủ phát triển: Để đáp ứng được nguyên tắc giá trị hợp lý của IFRS, thị trường cần phải hoạt động hiệu quả, cung cấp được những số liệu, thông số tài chính đáng tin cậy. Ngoài ra, IFRS có mục tiêu thể hiện, ghi lại các giao dịch tài chính thuộc nền kinh tế phát triển có nhiều công cụ tài chính phức tạp. Trong khi đó, thị trường tài chính và thị trường vốn của Việt Nam chưa đủ phát triển do chúng ta đang ở một nền kinh tế chuyển đổi đầy biến động và không có phổ biến các công cụ tài chính. Điều này dẫn đến việc áp dụng các chuẩn mực IFRS tại Việt Nam gặp khó khăn và thách thức trong ngắn hạn.

Các doanh nghiệp không muốn công khai tình hình tài chính: Điều kiện khi áp dụng IFRS là các thông tin tình hình tài chính của các doanh nghiệp sẽ chính xác hơn, đáng tin cậy hơn với việc nâng cao trách nhiệm giải trình từ phía doanh nghiệp. Điều này khiến các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả sẽ khó lòng có được báo cáo tài chính khả quan như hiện tại. Các doanh nghiệp hoạt động kém này có tâm lý sợ ảnh hưởng đến giá trị chứng khoán, xếp hạng và duy trì điều kiện được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Và nếu tiếp tục như vậy, đây sẽ là rào cản lớn trong việc áp dụng IFRS tại Việt Nam.

Thiếu đội ngũ nhân lực: Áp dụng IFRS tại Việt Nam cần có đội ngũ nhân lực có trình độ và được đào tạo bởi có sự chênh lệch lớn giữa VAS và IFRS. Tuy nhiên, nguồn nhân lực được đào tạo về các chuẩn mực này tại Việt Nam có rất ít. Chỉ một số kiểm toán viên, kế toán, nhà nghiên cứu thuộc các doanh nghiệp kiểm toán lớn mới có kỹ năng và kinh nghiệm lập báo cáo tài chính theo các chuẩn mực IFRS. Thậm chí, hầu hết giảng viên đại học hiện nay cũng không được trang bị kiến thức về IFRS. Rất ít cơ sở đào tạo đưa chương trình học theo IFRS vào giảng dạy. Ví dụ như một số trường Đại học lớn trong khối ngành kinh tế như Đại học Ngoại Thương, Đại học Kinh tế quốc dân, Học viện tài chính, Học viện ngân hàng… mới có một số khoa giảng dạy theo IFRS cho sinh viên. Điều này dẫn đến Việt Nam thiếu hụt lượng lớn nguồn nhân lực có kỹ năng, hiểu biết và có thể áp dụng IFRS.

Bất đồng ngôn ngữ: Với mục tiêu tạo ra ngôn ngữ chung trong kế toán, IFRS được soạn thảo hoàn toàn bằng tiếng Anh - ngôn ngữ quốc tế thông dụng hiện nay. Trong khi đó, các kế toán viên, kiểm toán viên, nhà đầu tư và doanh nghiệp Việt Nam có hạn chế tiếng Anh nhất định. Vì vậy, việc hiểu chính xác thuật ngữ, cập nhật tin tức và áp dụng IFRS ở Việt Nam sẽ gặp khó khăn hơn so với các nước sử dụng tiếng Anh.

Sự chồng chéo của các văn bản quy phạm pháp luật: Hiện nay, Việt Nam có tới 3 văn bản quy phạm pháp luật có tác động đến công tác tài chính của các doanh nghiệp. Bao gồm: chính sách thuế, chuẩn mực báo cáo tài chính và cơ chế tài chính. Điều này tạo ra sự không nhất quán và chồng chéo trong việc áp dụng. Do đó, áp dụng IFRS ở Việt Nam trong thời điểm hiện tại sẽ gặp khó khăn khi doanh nghiệp lúng túng không biết áp dụng nguyên tắc, quy định nào cho một giao dịch có sự khác biệt cách xử lý của các văn bản quy phạm pháp luật và IFRS.

3. Việt Nam cần chuẩn bị những gì để đưa IFRS vào thực tiễn

Áp dụng IFRS là điều không đơn giản, bản thân người kế toán viên cũng hình dung được mức độ phức tạp của IFRS và thách thức chuyên môn của bản thân trong thời gian tới. Việt Nam cần chuẩn bị những gì cho công cuộc chuyển đổi này? Một vài kiến nghị như sau:

Về phía cơ quan Nhà nước: Ban hành bản dịch IFRS với nội dung được dịch dễ hiểu ở mức tối đa. Tiếp theo đó là những văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết để doanh nghiệp nhanh chóng hiểu và triển khai được IFRS trong thực tế. Phát triển thị trường vốn hoạt động hiệu quả làm cơ sở để ghi nhận công cụ tài chính – một trong những chỉ tiêu quan trọng theo IFRS. Xây dựng ban chuyên gia và nhóm triển khai IFRS để hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp gặp vấn đề hoặc có thắc mắc khi áp dụng IFRS. Đẩy mạnh công tác giám sát, quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.

Về phía các cơ sở đào tạo, hiệp hội kế toán: Liên tục cập nhật và mở các chương trình đào tạo với mức học phí ưu đãi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với các chương trình này. Mở các buổi hội thảo, toạ đàm chỉ ra tầm quan trọng và lợi ích của IFRS, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về vấn đề này, làm rõ các khác biệt giữa IFRS và VAS, đồng thời đưa ra các yêu cầu cần thiết, hướng dẫn doanh nghiệp từng bước chuyển đổi. Các trường đại học cũng cần cập nhật các kiến thức về IFRS cho giảng viên, hỗ trợ giảng viên trong công tác nghiên cứu, giúp giảng viên có kiến thức vững chắc về IFRS, tiếp tục truyền lại cho thế hệ sau.

Về phía doanh nghiệp: Xác định lộ trình phù hợp với nguồn lực của mình và nên bắt đầu càng sớm càng tốt để có sự chuẩn bị tốt nhất. Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin, cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác chuyển đổi. Liên tục rà soát lại hệ thống kiểm soát nội bộ, quy trình làm việc của công ty để đảm bảo tính trung thực của BCTC và yêu cầu của IFRS. Tổ chức bộ máy kế toán và xây dựng quy chế phối hợp giữa các phòng ban. Xây dựng một nhóm dự án triển khai IFRS riêng biệt bao gồm cả lãnh đạo, chuyên gia, kế toán viên và các phòng ban. Chủ động tìm hiểu các kiến thức về IFRS, tiến hành đào tạo hoặc cử kế toán viên đi học các lớp về IFRS và các kiến thức khác liên quan. Quan trọng nhất là phải luôn tâm thế tiếp thu, thích ứng và sẵn sàng thay đổi, đừng vì chút khó khăn khi mới bắt đầu áp dụng mà đánh mất cơ hội tiềm tàng mà IFRS mang lại trong dài hạn.

Rõ ràng, có thể nhận thấy IFRS mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam, hướng đến tính ổn định và bền vững trong dài hạn. Tuy nhiên, việc thực hiện theo IFRS là điều không dễ dàng vì khác biệt trong văn hoá, kinh tế, pháp lý và trình độ giữa chúng ta và các nước trên thế giới còn tương đối lớn. Để áp dụng thành công IFRS vào thực tiễn cần thời gian dài với từng bước chuẩn bị kĩ lưỡng và sự hợp tác từ tất cả các bên liên quan như Nhà nước, chuyên gia, doanh nghiệp,… Đồng thời, IFRS vẫn đang tiếp tục được cập nhật và thay đổi, do đó Nhà nước cũng phải có những điều chỉnh, hỗ trợ và hướng dẫn doanh nghiệp theo từng giai đoạn cụ thể. Tình hình dịch bệnh Covid 19 trong thời gian qua cũng đã làm hao tổn nhiều tiền của, nguồn nhân lực và làm chậm đi phần nào lộ trình áp dụng IFRS như ban đầu đã đề ra. Thời gian tới, khi tình hình dịch bệnh được kiểm soát, những công tác liên quan đến IFRS sẽ được đẩy nhanh, đẩy mạnh hơn để sớm hiện thực hoá IFRS, tranh thủ được những ưu đãi khi hội nhập trên trường quốc tế.

Trương Á Bình – Đại học Quốc tế Sài gòn

SIU Review - số 131

Thông tin tuyển dụng

Thông tin cần biết

icon Giá vàng
icon Tỷ giá ngoại tệ
icon Chứng khoán